Showing posts with label Báo. Show all posts
Showing posts with label Báo. Show all posts

14 January 2020

Chủ quyền ở một thế giới không biên giới

Thiên Lương

(Bài đăng trên báo Nhân Dân Hằng Tháng, số Tết 2020)



Trong lịch sử nhân loại đã có nhiều sự thay đổi lớn về địa chính trị liên quan trực tiếp đến các thành tựu công nghệ mới nhất. Ví dụ điển hình là động cơ hơi nước. Công nghệ động cơ hơi nước đã giúp nước Anh trở thành cường quốc số 1, là công xưởng của thế giới trong thế kỷ 19, với lực lượng hải quân hùng mạnh nhất thời đó. 

Nhiều quốc gia đã xuất hiện và cũng không ít quốc gia biến mất sau khi con người tìm ra một công nghệ mới. Hiện nay chúng ta đang đứng trước một bước ngoặt lịch sử với sự phát triển phi thường của internet, bao gồm mạng xã hội; các trạm phát 4G, 5G; các vệ tinh; cáp quang; các thiết bị đầu cuối như máy tính, điện thoại; và các trung tâm lưu trữ dữ liệu khổng lồ. Tất cả chúng đang tạo nên một thế giới không biên giới nhưng cũng đẩy các xung đột sắc tộc lên mức độ khác hẳn.

Công nghệ thông tin đang tác động mạnh mẽ đến xã hội hiện đại, và có những thay đổi thầm lặng diễn ra nhưng tạo các ảnh hưởng vô cùng sâu rộng và không thể sửa chữa nhưng ít ai chú ý đến. 

Quyền thu thuế

Cách đây vài năm, chính xác là từ cuối năm 2013 đến đầu năm 2014, đã xảy ra một hiện tượng có thể nói là chấn động tại VN: Nguyễn Hà Đông, một kỹ sư công nghệ thông tin trẻ, đã kiếm được một số tiền khổng lồ mà các doanh nhân thành đạt phải làm hàng chục năm may ra mới có được, nhờ vào một trò chơi đơn giản có tên là Flappy Bird, sau khi nó được hàng chục triệu người trên toàn thế giới tải xuống điện thoại riêng. Sau này anh đã đóng thuế cho VN theo đúng luật. Tuy nhiên, trường hợp đặc biệt ấy đã khiến cho người VN nhận thức rõ hơn về khả năng kiếm tiền không chỉ rất nhiều mà còn rất nhanh trên mạng, và các cơ quan thuế cũng thấy rõ hơn về thực tế của một thị trường rất mới lạ, hoàn toàn khác với thị trường hàng hóa truyền thống. Sau này cũng có nhiều trường hợp nhận được thu nhập rất cao từ mạng, nhưng có lẽ Flappy Bird vẫn là một tượng đài khó có thể vượt qua.

Một trong những quyền lực quan trọng nhất của nhà nước là thu thuế. Mọi hoạt động của bất kỳ chính quyền nào cũng đều cần nguồn tiền: đầu tiên là nuôi bộ máy nhà nước, rồi để cung ứng các dịch vụ công cộng. Thuế là công cụ quan trọng để chính quyền can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế, để điều tiết thu nhập trong xã hội, để hạn chế một số hoạt động có hại của công dân ví dụ như vi phạm luật giao thông, và để hạn chế các mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng như rượu, bia, thuốc lá. 

Vậy nên từ cổ chí kim, mỗi khi có một thế lực mới lên nắm chính quyền là lập tức họ phải quản lý được các nguồn thu thuế trong nước. Thu thuế là một dạng chủ quyền quan trọng, nhất là vào thời xưa, khi đường biên giới chưa rõ ràng. Thực tế thì một nhà nước không thể được coi là có trọn vẹn chủ quyền khi công dân của nó đi đóng thuế trực tiếp cho nước khác. 

Nhiều cuộc chiến tranh lớn đã nổ ra chỉ vì các chính sách thuế của một nhà nước nào đó đã làm ảnh hưởng đến công việc làm ăn của các công ty ngoại quốc. Ví dụ điển hình là cuộc chiến tranh Nha phiến ở Trung Quốc.

Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, công nghệ đã làm đường biên giới quốc gia không còn chỉ là các cột mốc vật lý bằng bê tông hay gỗ đá nữa, mà nằm cả dưới lòng đất, trên trời, và đặc biệt là qua internet. Hàng hóa cũng không còn chỉ là những thứ hữu hình như than đá, gạo, ô tô, thuốc phiện,… mà đôi khi chỉ là những tập tin vô hình được truyền theo những con đường hết sức bí ẩn và dường như không thể kiểm soát. 

Thực tế ngày nay một phần lớn nền kinh tế thế giới đã chuyển lên không gian mạng. Trên đó đã hình thành những khu chợ khổng lồ xuyên quốc gia, nơi người ta mua bán từ cái tăm cho đến cả một chiếc máy bay, và câu hỏi đặt ra là ai đã, đang và sẽ thu thuế các khu chợ đó, nói một cách khác là ai sẽ có chủ quyền thực sự về kinh tế với một quốc gia trong thời đại internet? 

Chắc chắn nhà nước chúng ta đã nhận thức rất rõ về chủ quyền kinh tế trên không gian mạng, nên đã yêu cầu các doanh nghiệp nước ngoài phải nộp thuế và đặt máy chủ tại VN. 

Quyền với dữ liệu công dân

Một người mẹ đã kể lại trên mạng một câu chuyện vừa buồn cười vừa đáng ngại về chính gia đình mình. Trước đến nay, chị ấy không bao giờ băn khoăn về con gái, vì con bé luôn ngoan ngoãn, đi học xong là về nhà. Nhưng có lần hai mẹ con đi chơi, ngồi gần một khách sạn nhỏ và thấy điện thoại con gái dù không có 4G nhưng vẫn vào được mạng qua wifi thì chị mới phát hiện ra là máy cô bé đã có sẵn mạng của khách sạn ấy. Sau đó, khi kiểm tra lại điện thoại con gái, người mẹ mới phát hiện ra vô số mạng wifi khác với tên các khách sạn nhỏ dọc đường từ trường về nhà.

Sự riêng tư hiện nay đã là một thứ quá xa xỉ, và gần như không tưởng, với tất cả chúng ta. Chúng ta đã bán, đang bán, và, tiếc thay, với giá rất rẻ, gần như toàn bộ dữ liệu cá nhân của mình mà không ý thức được đầy đủ về giá trị của chúng. 

Chúng ta ai cũng từng gặp một thực tế là ngay sau khi chát với bạn trên mạng về một món hàng nào đó, hoặc thậm chí chỉ cần nói chuyện với ai đó về nó trong khi điện thoại để bên cạnh, thì vài phút sau là máy chúng ta sẽ tràn ngập quảng cáo về món hàng ấy. 

Tuy nhiên, dữ liệu không chỉ là mỏ vàng cho quảng cáo, mà còn là vấn đề an ninh quốc gia . Hiện nay mọi người đều dùng điện thoại thông minh, mạng xã hội. Và mỗi chiếc điện thoại đều lưu trữ email, ảnh, phim, phần mềm quản lý tài khoản ngân hàng, ví điện tử,… thậm chí vô số thông tin nhạy cảm khác như tọa độ di chuyển hàng ngày, các file công việc quan trọng và thậm chí cả các bức ảnh nhạy cảm của cá nhân và gia đình. Ngay cả nếu bạn không dùng điện thoại thông minh, bạn cũng chưa chắc đã tránh được khỏi mạng lưới của các tập đoàn lớn, vì bạn có thể lọt vào ảnh chụp của một người nào đó khác. Vậy nên bạn hãy rất cẩn thận khi ngồi sân bay để chờ một chuyến bay lãng mạn không muốn ai biết, vì có thể bạn sẽ lọt vào camera điện thoại của một người xa lạ, nhưng người xa lạ ấy lại có quan hệ nào đó với người quen của vợ hay chồng bạn. 

Mỗi chiếc điện thoại bị mất hoặc bị hỏng có thể làm cho chủ nhân của nó khốn khổ vì những dữ liệu vô cùng quan trọng với chủ nhân nó. Vậy hàng trăm triệu chiếc điện thoại được kết nối thành mạng và thường xuyên gửi toàn bộ dữ liệu cá nhân về các máy chủ ở nước ngoài thì sẽ tạo ra một kho dữ liệu kinh khủng đến thế nào?

Thực tế, với những phần mềm chuyên dụng và chạy trên các siêu máy tính, một tập đoàn công nghệ ngoại quốc hoàn toàn có thể lập được những cơ sở dữ liệu công dân vĩ đại đến mức không một chính phủ nào có được, thậm chí hình dung ra nổi. Nó có thể biết mọi công dân di chuyển ra sao, có bao nhiêu tiền, có quan hệ với ai, (cả những quan hệ mà đến người trong gia đình còn không biết), có sở thích riêng ra sao, quan điểm chính trị thế nào,... Nói chung tất cả những gì quan trọng nhất của một con người mà đôi khi chính họ cũng không biết lại sẽ nằm trong máy chủ và thuộc về tài sản một tập đoàn nào đó ở nước ngoài. 

Đây không còn là một vấn đề viễn tưởng như trong các tiểu thuyết ngày xưa nữa, mà đã là một thực tế mà chúng ta phải đối diện, và càng ngày càng đe dọa chủ quyền và quyền tự quyết của chúng ta.

Con đường nào?

Vậy đâu là con đường thích hợp cho chúng ta trong một thế giới mới mà chúng ta không thể và cũng không nên bế quan tỏa cảng? Câu trả lời có lẽ không đơn giản và sẽ cần đến các nhà quản lý có tầm nhìn thật sự xa và hiểu được cả cơ hội và sự nguy hiểm của các công nghệ mới. Nhưng từng người dân cũng phải ý thức được sự quan trọng của chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. 

Và dù cách làm có là gì, thì hai vấn đề nhà nước cần quan tâm nhất có lẽ vẫn như trên: Quyền thu thuế và quyền với dữ liệu công dân. Dù có kiểm soát được mọi xăng ti mét biên giới và từng cửa khẩu, vẫn chưa thể được coi là có chủ quyền đầy đủ.

Chúng ta đã chiến thắng được nhiều đế quốc lớn và giành được độc lập tự do dù luôn nghèo hơn và kém hơn kẻ thù về công nghệ, nguyên nhân không chỉ do lòng dũng cảm và ý chí mà chủ yếu do người dân và chính quyền luôn đoàn kết vì mục đích chung, đúng như lời Bác Hồ dạy: 

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”

Với tinh thần ấy thì chắc chắn rằng chẳng có gì không thể vượt qua được, nhất là với thế và lực mạnh mẽ như hiện nay của chúng ta, và dù có gặp khó khăn gì thì lời giải đều có thể rất đơn giản và nằm sẵn trong lịch sử chống ngoại xâm của cha ông. 



17 December 2019

Phê bình dịch thuật và song đề tù nhân

Lolita, bản dịch Thiên Lương

Vietnamnet
Ngày 10/5/2013

Thái độ đối đầu của dịch giả và giới phê bình đã làm cho họ không thể ngồi nói chuyện với nhau được về những cái quan trọng hơn trong văn chương.

Thời gian gần đây luôn có những đợt sóng phê bình ào ạt vỗ vào ốc đảo nhỏ nhoi lởm chởm đá tai mèo và thấp thoáng những ngọn hải đăng cũ kỹ trong sương chiều của nền văn học dịch nước nhà. Cũng lạ là từ chỗ chỉ biết gục đầu thành kính đọc tất cả những gì được dịch ra tiếng Việt, độc giả lại quay ngoắt qua chê trách hầu như là tất cả các bản dịch, dù chúng được dịch từ những cây đa cây đề bấy lâu nay vẫn được tưới tắm cẩn thận và thường xuyên bởi những bài báo, giải thưởng, và lời khen (lẫn nhau) của người nhà.

Người thì bảo các thảm họa dịch thuật có nguyên nhân do biên tập quá ẩu, người thì phân trần do nhuận bút quá bèo làm cho dịch giả không thể dịch cho kỹ, người lại nói… từ trước đến nay văn học dịch vốn dĩ là loạn, sao lại ném đá chúng tôi, chỉ vì chúng tôi sinh ra phải cái thời mà bất cứ ai cũng có thể tra cứu tiếng Anh và có được bản gốc chỉ bằng vài cú bấm chuột hay là chạm đầu ngón tay?

Phê bình hay đập cho chết?

Đứng trên một góc độ nào đó, thì rõ ràng là phê bình dịch thuật đang ở trong một giai đoạn rất thiếu tính xây dựng đối với dịch giả. Hầu như các bài phê bình mang tính “đập chết ăn thịt”, tìm và thống kê hàng loạt lỗi dịch sai thô thiển đến mức không thể chấp nhận nổi, rồi kết luận là dịch giả quá kém. Tuy nhiên, những lỗi còn nguy hiểm hơn ví dụ như dịch sai hoàn toàn ý tác giả (mặc dù đúng từng từ trong từ điển) thì lại ít khi được đề cập đến.

Điều này làm cho dịch giả rất ấm ức, và luôn phân trần rằng ai cũng có thể dịch sai từ, những phê bình kiểu moi móc vài chục lỗi sai trong một bản dịch hàng chục hay hàng trăm ngàn từ là khá bất công với dịch giả. Thậm chí có dịch giả còn phản ứng quyết liệt bằng cách hỏi nhà phê bình xem, chẳng hạn, anh nói tôi dịch sai hàng ngàn từ, thì chứng cứ đâu?

Tuy nhiên, không một tờ báo tử tế nào sẽ chịu đăng một bài viết chỉ để liệt kê 3000 lỗi trong một cuốn sách nào đó. Và với những lỗi mang tính học thuật, tranh luận về các đoạn dịch sai ý tác giả mặc dù đúng đến từng chữ, sẽ tốn giấy tốn mực đến mức chúng chỉ có thể đăng trên các trang web cá nhân của nhà phê bình.

Chính điều đó đã dẫn đến tình trạng phải nói là phê bình dịch thuật theo kiểu quyết liệt triệt hạ cho bằng được như hiện nay trên báo chí VN. Những người phê bình không muốn mất thời gian vào chuyện tranh cãi triền miên về một quan điểm dịch với hàng ngàn bài viết xung quanh chỉ một từ duy nhất, điển hình là chỉ với một từ của nhà văn Tim O’Brien mà giới phê bình đã phải thư qua tin lại đến vài chục bài, tốn giấy tốn mực của hầu hết các tờ báo lớn nhỏ của VN, đủ thấy việc phê bình học thuật gian nan đến mức nào, và thái độ phản ứng đến cùng của dịch giả đã đưa đến một kiểu phê bình chỉ nhằm vào việc dịch sai từ. Anh không chịu nhận chỗ này anh dịch sai ý phải không, thế thì tôi sẽ chỉ cho anh hàng chục, hàng trăm chỗ anh dịch sai nghĩa nhé?

Dịch sai tiếng Anh quả thật là tệ, nhưng đáng tiếc đây chưa phải là lỗi nghiêm trọng nhất trong dịch thuật. Đương nhiên với các nhà văn lớn, như Tim O’Brien, Nabokov,… thì không nên và không thể dịch sai dù chỉ một từ, do họ đều suy ngẫm từng từ ngữ họ viết; nhưng một bản dịch vẫn có thể sai hoàn toàn mặc dù dịch sát đến từng chữ. Nhất là những bản dịch từ tiếng Anh – một thứ tiếng có những nghĩa thay đổi hoàn toàn theo ngữ cảnh của nó.

Thái độ đối đầu của dịch giả và giới phê bình đã làm cho họ không thể ngồi nói chuyện với nhau được về những cái quan trọng hơn trong văn chương. Rất khó, và thực tế là không thể bảo một cái đang tưởng nó là ngọn Hải Đăng, rằng nó cần phải đổi hướng đi.

Phê bình có dễ không?

Ở một đất nước duy tình hơn duy lý như VN chúng ta, nơi mà người ta vẫn bảo nhau rằng một bồ cái lí không bằng một tí cái tình, thì phê bình dịch thuật nói riêng và phê bình nói chung là một việc cần nhiều dũng cảm hơn là người ta tưởng.

Có trăm ngàn cách nói để người ta trách cứ một nhà phê bình: Nó còn quá ít tuổi, anh phê bình thế thì làm sao nó còn có nhiệt tình để dịch tiếp? Ông ấy đã quá già, sao anh có thể nói như thế với một người già? Cô bé đó viết như vậy là khá rồi, sao anh lại đòi hỏi quá nhiều ở một cô gái viết văn? Dịch giả đó đang gặp những chuyện buồn đấy, anh làm vậy ác quá! Tác phẩm đó rất là khó, dịch được như thế hoàn toàn không dễ, anh nên có tinh thần xây dựng hơn! Cái chuyện ấy thì dịch sao mà chẳng được, anh xét nét quá đáng! Đó là chưa kể một số người còn cho rằng phê bình một tác phẩm đôi khi chỉ giúp cho nó bán chạy hơn. Thậm chí nghi ngờ… nhà phê bình là tay trong của nhà sách!

Song đề tù nhân

Thực ra hiện nay, đã là trí thức thì ai cũng có thể là dịch giả hoặc nhà phê bình dịch thuật. Hai vai trò đó không đối kháng lẫn nhau trong một cá nhân. Và nó gợi lại bài toán nổi tiếng có tên là Song Đề Tù Nhân trong lý thuyết trò chơi (game theory). Tóm lược như sau: Hai kẻ bị tình nghi là tội phạm bị cảnh sát bắt. Cảnh sát không có đủ chứng cớ để kết án họ, nên đã cách ly họ. Cảnh sát gặp từng người một và làm cùng thoả thuận: nếu một người thú tội mà người kia im lặng, người im lặng sẽ bị phạt 10 năm tù và người thú tội sẽ được thả tự do. Nếu cả hai đều im lặng, cảnh sát chỉ phạt được mỗi tù nhân 6 tháng tù vì một tội nhỏ nào đó khác. Nếu cả hai đều thú tội, mỗi người sẽ bị phạt 2 năm.

Về mặt lý thuyết thì cả hai nên giữ im lặng để cùng bị phạt ít nhất. Nhưng trong thực tế thì các thí nghiệm cho thấy đa phần người ta chọn giải pháp thú tội. Lý thuyết trò chơi đã có sự phát triển mạnh từ khi John von Neumann là người đầu tiên hình thức hóa nó trong thời kỳ trước và trong Chiến tranh Lạnh, chủ yếu do áp dụng của nó trong chiến lược quân sự, nổi tiếng nhất là khái niệm đảm bảo phá hủy lẫn nhau mà các siêu cường áp dụng để phát triển hệ thống vũ khí hạt nhân hủy diệt của họ. Những ý tưởng từ lý thuyết trò chơi cũng tìm được chỗ đứng trong việc xây dựng một thị trường cạnh tranh, khi các nhà cung cấp không thể bắt tay nhau để mưu lợi cho nhóm của mình.

Quay về vấn đề phê bình dịch thuật, có thể thấy giải pháp tốt nhất cho giới dịch giả là im lặng trước tất cả những sai sót của đồng nghiệp. Thực tế vừa qua đã cho thấy một nhà cựu-phê bình đã bị phê bình khốc liệt đến thế nào. Có lẽ anh cũng có đôi chút ăn năn về những lời ngày xưa mình đã viết về đồng nghiệp! Tuy nhiên điểm cân bằng mang tính lợi ích nhóm này rất mong manh và sẽ nhanh chóng bị phá vỡ. Thực tế thì cộng đồng không được lợi ích gì khi phải mua sản phẩm được “sản xuất” ra từ một nhóm “đoàn kết nhất trí cao” như thế.

Dù giới dịch giả có phản ứng đến thế nào, thì vai trò của các nhà phê bình là cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và đảm bảo quyền lợi cho khách hàng - ở đây là những độc giả mua sách dịch. Chúng ta cần ủng hộ các nhà phê bình cũng nhiều như ủng hộ các bản dịch chất lượng cao. Không thể chấp nhận thái độ của một số dịch giả coi việc dịch sách là một công việc cá nhân bất chấp độc giả, coi độc giả chỉ như những kẻ ăn “cơm mớm” từ miệng dịch giả. Hàng triệu độc giả không biết tiếng Anh và bỏ tiền ra để mua các “dịch phẩm”, sẽ nghĩ thế nào khi biết dịch giả coi thường họ như thế?

Phê bình như thế nào?

Như đã nói ở trên, báo chí không thể đóng vai trò có tính chuyên môn trong việc phê bình dịch thuật, báo chí chỉ có thể rung những hồi chuông cảnh báo về chất lượng của một bản dịch nói riêng, hay là một xu hướng dịch loạn nói chung; và để làm như vậy nó buộc phải dùng biện pháp nghiệp vụ đặc thù của mình là “đánh” vào những biểu tượng nhất định, hoặc vào những thứ mang tính biểu tượng.

Để việc phê bình dịch thuật thực sự mang lại hiệu quả, thì sau những bài báo sẽ phải là các nghiên cứu chuyên sâu hơn, thậm chí là những hội thảo chỉ nhằm vào việc phân tích một bản dịch. Các dịch giả cũng nên từ bỏ tâm thế coi tất cả những phê bình là nhằm vào cá nhân hay một công ty, một nhà sách nhất định. Nếu anh là một dịch giả lương thiện, yêu nghề, hãy đừng ngại lời phê bình, dù nó đúng hay sai, thì nó cũng là những cơ hội để anh hiểu được mình, hiểu được tác phẩm mình đã dịch. Và trên hết, chính những lời phê bình đó sẽ tạo ra một môi trường lành mạnh mà các tác phẩm dịch của anh mong muốn mang đến cho độc giả.

Nhà văn Nguyễn Tuân từng nói: “Khi tôi chết, nhớ chôn tôi cùng một thằng phê bình!” Cũng không hiểu cụ nói thế là quá ghét hay là quá yêu các nhà phê bình. Nhưng chắc chắn rằng sống hay chết, thì phê bình vẫn phải đồng hành với văn chương, dù đó chỉ là văn chương dịch.

Thiên Lương

25 August 2015

Câu chuyện về người thừa kế di sản James Joyce

Biên soạn từ nhiều nguồn.

Vào đêm tất niên 2012, Twitter feed của trang web Ubu, nơi lưu dữ liệu của các nghệ sĩ tiên phong, đã đăng đường dẫn đến một bài báo trên tờ The Irish Times về việc hết hạn bản quyền ở châu Âu với các tác phẩm của James Joyce, nhà văn vĩ đại người gốc Ireland, tác giả kiệt tác Ulysses.

James Joyce

Đường dẫn đi cùng một thông điệp cộc lốc gửi tới cháu nội và cũng là người thừa kế duy nhất còn sống của Joyce: “Mẹ mày, Stephen Joyce bản quyền các tác phẩm của James Joyce tại EU chấm dứt giữa đêm nay”. Trong khi ngôn từ có thể cộc lốc một cách bất thường thì cảm xúc mà nó biểu lộ lại rất phổ biến.

Hành trình thành công sản của các tác phẩm chính của Joyce đã được tuyên truyền gần như khắp nơi, như thể nó là phiên bản sách về sự hủy diệt của một vì sao chết trong bộ phim Star Wars, với Stephen Joyce vào vai một tay Darth Vader trí thức nào đó bỗng nhiên không còn ở vị trí thở hồng hộc vào gáy những kẻ phiến loạn mê Joyce nữa.

Cuộc chiến bản quyền

Stephen Joyce, cháu nội của James Joyce (1882-1941), từ giữa những năm 1990 đã nắm quyền lực tối cao với một trong những di sản văn chương hiếu chiến và bế tắc nhất nhân loại (có lẽ chỉ có thể so bì với Paul, con trai của Louis Zukofsky, cho danh hiệu người thực hiện di chúc cứng rắn nhất thế giới văn chương).

Các học giả bị yêu cầu phải thanh toán các khoản phí bản quyền cắt cổ, và thường xuyên bị từ chối thẳng thừng quyền trích dẫn bất cứ thứ gì từ các tác phẩm của Joyce. Những toan tính sáng tạo các phóng tác theo Ulysses, Finnegans Wake, Dubliners, hay A portrait of the artist as a young man, hoặc những buổi đọc công cộng các cuốn sách này được điều đình với thái độ ngờ vực và thù địch.

Trong một bài báo năm 2006 trên tờ The NewYorker, D. T. Max đã xem xét mối quan hệ quá đỗi khó chịu giữa Stephen và những người hâm mộ Joyce. Max viết về việc Stephen, tại một hội nghị chuyên đề năm 1988 ở Venice nhân “ngày hội Bloom”, đã tuyên bố rằng ông ta đã “hủy mọi lá thư mà bà dì Lucia của ông ta [và cũng là cô con gái gây phiền muộn của James Joyce] viết cho ông và vợ ông” và rằng ông ta đã “làm điều tương tự với các bưu thiếp và điện tín gửi đến Lucia từ Samuel Beckett, người đã dan díu với bà hồi những năm 1920”.

Ulysses

Những người hâm mộ James Joyce tổ chức lễ hội mang tên Bloom, nhân vật chính trong Ulysses, vào ngày 16-6 hằng năm. Năm 2004, kế hoạch tổ chức đợt đọc sách nơi công cộng với các trích đoạn từ Ulysses để kỷ niệm 100 năm ngày hội Bloom ở Dublin đã bị hủy bỏ, sau khi Stephen hăm dọa chính quyền Ireland rằng họ vi phạm bản quyền di sản. Thèm muốn phá rối của Stephen thật lố bịch và dường như không bao giờ có thể được thỏa mãn.

Nhằm mục đích vinh danh đại văn hào, Thư viện Quốc gia Ireland mở một khu mới để trưng bày nhiều tư liệu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp James Joyce, bao gồm các chứng liệu, bản thảo, thư từ trao đổi giữa Joyce với người thân, bạn bè, nhà xuất bản, độc giả, vợ - kể cả những lá thư hoàn toàn riêng tư chứa đầy từ ngữ tục tĩu viết riêng cho vợ - và đặc biệt là, lần đầu tiên, bản thảo gốc của Ulysses được trưng bày.

Stephen đã cảnh cáo Thư viện Quốc gia Ireland rằng kế hoạch trưng bày bản thảo của ông nội là vi phạm bản quyền. (Thượng viện Ireland phải thông qua một điều luật bổ sung khẩn cấp để ngăn cản ông ta).

Sự phản kháng của Stephen đã làm cho Abbey Theatre phải hủy một buổi diễn vở Exiles của Joyce, và ông ta tuyên bố với Adam Harvey, một nghệ sĩ trình diễn đã thuộc lòng một phần Finnegans Wake với mong muốn thuật lại được chúng trên sân khấu, rằng anh ta “đã vi phạm” bản quyền di sản. Harvey sau này đã phát hiện ra rằng, theo luật Anh, Joyce chẳng có quyền dừng buổi biểu diễn của anh.

Cơ hội mới cho James Joyce

Người ta cho rằng các học giả chuyên nghiên cứu về Joyce sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn công chúng bởi những phô trương quyền lực thô bạo với di sản. Sam Slote, hiện đang dạy văn học Anh ở Trinity College Dublin, và cũng là một nhân vật xuất chúng trong lĩnh vực nghiên cứu về Joyce, chỉ ra rằng vẫn chưa rõ tình trạng của các ấn bản ra đời sau khi tác giả chết - chẳng hạn các bức thư và bản thảo, cũng như Stephen hero (một tiểu thuyết tự truyện dang dở mà Joyce sửa tận gốc như A Portrait) và Giacomo Joyce sẽ như thế nào.

Sean Latham, giáo sư tiếng Anh tại Đại học Tulsa, chủ bút “James Joyce tam cá nguyệt san”, cũng đồng quan điểm rằng đây là một cột mốc quan trọng, nhưng không báo hiệu “một thời kỳ phục hưng sôi nổi trong việc nghiên cứu Joyce. Chúng ta đã phục hưng việc này hàng thập kỷ rồi.

Sự thật là các tác phẩm chưa công bố - đáng kể nhất trong đó là các lá thư của Joyce - giờ đã hết bản quyền ở Mỹ, và dẫu sao thì cũng sẽ có những ảnh hưởng lớn đến tiểu sử ông ấy. Tôi đã biết rằng đang có vài dự án lên kế hoạch in ấn những lá thư này. Hiện nay chúng tôi đã có ba tập thư từ. Một dự án đã hoàn tất. Nhiều dự án đang triển khai.

Có những lá thư mà Stephen cương quyết từ chối công bố nên việc in ấn chúng sẽ thật sự quan trọng. Chúng ta sẽ có đủ loại chuyện mà cuối cùng chúng ta sẽ được phép kể về Joyce và cuộc đời ông ấy, những chuyện trước giờ chúng ta chưa thể kể”.

Ngay sau khi hết thời hạn bản quyền, các tác phẩm của James Joyce nhanh chóng xuất hiện với các ấn bản mới, các tuyển tập mới và các bản dịch mới. Sean nhắc đến các bản in mới của Finnegans Wake, Ulysses, A Portrait và Dubliners. Bản Ulysses tiếng ý sắp được in và Sam Slote đang chuẩn bị cho một phiên bản chú giải cặn kẽ về cuốn tiểu thuyết này.

Chắc chắn cũng có khá nhiều nhà xuất bản yếu kém và cơ hội sẽ lợi dụng tình trạng công hữu của các tác phẩm. Sam cho xem một bộ sưu tập đặc biệt gớm guốc - một hộp bọc giả da màu lục có nắp đậy, chứa vài tập sách nhỏ của Joyce cũng bọc da giả. Ulysses được in thành ba tập, và để cho các tập có kích thước bằng nhau, nhà sách đã chuyển chương dài nhất, Circe, vào một nơi khác hẳn trong cuốn sách.

Trong hộp còn chứa một thứ gì đó được gọi là “Tinh tuyển truyện ngắn”, mà hóa ra chính là Dubliners với các truyện ngắn được sắp xếp lại, một cách ngu ngốc, theo thứ tự bảng chữ cái. Chẳng có gì ngạc nhiên là Stephen Joyce đã trấn áp những thứ này một cách hung ác. “Tôi biết ít nhất là một người - Sam nói - đã mua hai cuốn này, một cuốn được ông ta giữ nguyên đai nguyên kiện do cho rằng chúng sẽ lên giá. Nhưng ta sẽ còn được thấy cả đống sách tương tự thế này”.

Sean Latham đồng ý rằng các ấn bản sách của Joyce sẽ không còn được quản lý chất lượng tốt như trước nữa, nhưng không cho rằng đó là một diễn biến tệ hại, và vạch ra rằng chẳng ai còn quan tâm mấy đến việc có rất nhiều ấn bản sách của Dicken và Shakespeare nữa.

Ngay Ulysses, kiệt tác quan trọng nhất của James Joyce, cuốn sách đứng đầu hàng loạt bảng xếp hạng các tiểu thuyết vĩ đại nhất của nhân loại, cũng có một lịch sử xuất bản lạ lùng. Ấn bản đầu tiên của nó xuất hiện vào năm 1922 tại Paris hiển nhiên là có cực nhiều sai sót, đó là điều không cần phải bàn cãi. Trước đấy, khi còn được đăng từng kỳ trên The Little Review, nhiều phiên bản của tác phẩm đã phải qua nhiều tay và tùy vào sở thích, ý đồ riêng của biên tập viên mà tác phẩm bị cắt xén, bị giản lược, hoặc sửa.

Trong thời gian này, Joyce tiếp tục biên tập, thêm thắt nhiều chi tiết khác vào tác phẩm. Do đó, giữa các văn bản có sự khác biệt đáng kể. Chính Joyce lúc còn sống cũng không khẳng định phiên bản nào đúng. Hậu quả là không có ấn bản nào được xem là thật sự hoàn hảo, khiến cho tác phẩm mãi là đề tài tranh cãi bất tận giữa các học giả.

Mặc dù vô cùng khó đọc, dài khoảng 265.000 từ và sử dụng từ vựng tới 30.300 từ, Ulysses vẫn được đánh giá rất cao. Năm 1998, một hội đồng tuyển chọn gồm 10 người - đa số là người Mỹ - của New York Modern Library, một nhà xuất bản thuộc Random House, đã cùng nhau chọn danh sách 100 tác phẩm viết bằng tiếng Anh có giá trị nhất của thế kỷ 20.

Joyce có hai tác phẩm được chọn: Ulysses đứng đầu bảng và A portrait of the artist as a young man hạng ba. The great Gatsby của Scott Fitzgerald hạng nhì và Lolita của Vladimir Nabokov đứng thứ tư. Quả thật, thứ tự xếp hạng các kiệt tác này có thay đổi trong những lần bình chọn khác nhau của các nhóm độc giả khác nhau, nhưng các tác phẩm của James Joyce luôn đứng ở vị trí đầu tiên.

Chính sự phức tạp liên quan đến bản thân nội dung Ulysses cũng như các phiên bản của nó phần nào làm cho việc Stephen hết sức cứng rắn khi điều đình về bản quyền di sản, càng khiến giới học thuật và những người hâm mộ James Joyce bất mãn với người thừa kế này.

Dẫu sao chăng nữa, việc chấm dứt thời hạn bảo vệ bản quyền các tác phẩm của James Joyce đã giúp cho cả các tác phẩm phái sinh rộng đường đến với công chúng, sẽ có nhiều người biết đến các kiệt tác của ông hơn, và đó cũng là sự tôn vinh cao quý nhất với một trong những nhà văn bậc thầy của nhân loại.  

Bài đã đăng trên báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần

15 July 2015

Mất chủ quyền quốc gia trên mạng

Từ Phong

Hàng chục triệu người Việt Nam đang tự nguyện hiến dâng hầu hết thông tin cá nhân của mình cho các mạng xã hội. Điều này tạo ra những nguy cơ lớn về an ninh, về chủ quyền quốc gia. Đã đến lúc phải thay đổi.



Theo Facebook, hiện nay họ có 30 triệu người dùng tại Việt Nam (trong đó 27 triệu người dùng trên thiết bị di động).

Tính đến tháng 1.2015, lượng người Việt dùng Facebook mỗi ngày đã tăng 43% so với cùng kì năm ngoái. Về độ tuổi người dùng, có đến 3/4 người Việt dùng Facebook từ 18 - 34 tuổi. Ngoài ra, người Việt hiện dành khoảng 2 tiếng rưỡi mỗi ngày cho Facebook, gấp đôi thời gian dành để xem ti vi.

Ảnh hưởng của Facebook: từ lượng thành chất

Những con số thống kê này cho thấy ảnh hưởng ngày càng kinh khủng của Facebook nói riêng và các mạng xã hội nói chung lên cuộc sống người Việt hiện nay. Chúng ta đang bỏ những nguồn lực khổng lồ của cả dân tộc vào các hệ thống công nghệ của nước ngoài, và đóng góp đáng kể cho sự thành công của những tập đoàn trị giá hàng trăm tỉ đô la Mỹ.

Không phủ nhận những mặt tích cực của mạng xã hội lên đời sống từng cá nhân và cả xã hội, nhờ có nó mà chúng ta có thể giữ được quan hệ với bạn bè, tìm kiếm các mối quan hệ mới, gặp lại những người cũ, dù chỉ trên không gian ảo. Và cũng nhờ nó mà nhiều vấn đề đã được khơi lên trong cộng đồng để rồi tạo sự thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, chẳng hạn như chất lượng các bản dịch văn học tại Việt Nam. Sau khi cư dân Facebook lên tiếng về các thảm họa dịch thuật, thì giới chuyên môn và các nhà sách đã phải cẩn trọng hơn, phải thu hồi và sửa chữa các bản dịch lỗi.

Tuy nhiên, những mặt trái của mạng xã hội cũng làm chúng ta phải e ngại. Mới đây, một cô gái trẻ đã tự tử do không chịu nổi những lời đàm tiếu trên Facebook sau khi bị người yêu tung đoạn video quay cảnh nhạy cảm giữa hai người lên mạng. Một nhà khoa học đã phải mất nhiều ngày giải thích về bằng tiến sỹ khoa học của mình trước những tấn công vu cáo ông.

Những bài viết tràn ngập trên mạng hằng ngày đả kích các lãnh đạo đất nước, phỉ báng vĩ nhân, thậm chí là kích động hằn thù dân tộc. Rất nhiều thông tin không thể kiểm chứng và từ những nguồn không tin cậy đã làm cho thành viên Facebook hoang mang và nhiều khi dẫn đến các phản ứng tập thể mù quáng, mà những trường hợp điển hình nhất gần đây thuộc về dự án sân bay Long Thành, thay cây xanh và thiết kế đường tàu trên cao tại Hà Nội. Bất chấp các ý kiến chuyên gia và quan điểm của những người có trách nhiệm, vẫn có một phần đám đông trên Facebook không thôi hoài nghi về tính hợp lý cùng những mặt tích cực của các dự án này.

Sự tự do gần như tuyệt đối cùng tính vô danh tương đối của xã hội Facebook đã tạo ra sự bình đẳng giả tạo về mặt thông tin. Người ta không còn phân biệt được sự khác nhau giữa các ý kiến chuyên môn của một giáo sư toán với một cậu sinh viên, giữa một chuyên gia danh tiếng trong ngành hàng không với một kỹ sư nông nghiệp về hưu nào đó.

Chứng nghiện Facebook

Theo kết quả một thăm dò ý kiến trên một tờ báo lớn, có đến 47,9% người tham gia cho rằng “người dùng đã chia sẻ quá nhiều thứ không cần thiết trên Facebook”, 34,5% cho rằng “người dùng lãng phí thời gian trên Facebook”. Tại sao rất nhiều người bỏ thời gian quý báu của mình cho Facebook, mặc dù chính họ cũng phải công nhận rằng tuyệt đại đa số thời gian ấy là vô nghĩa, hoặc chí ít thì cũng không đem lại lợi ích vật chất hay tinh thần nào nhiều hơn so với khi họ dành chúng cho đời thực?

Câu trả lời có thể tìm thấy qua bản chất của chiến lược kinh doanh mà các chuyên gia gọi là tiếp thị Skinner, lấy theo tên nhà khoa học nổi tiếng trong ngành tâm lý học hành vi. Trong thí nghiệm của mình, Burrhus Frederic Skinner đã cho một con chuột vào chiếc lồng có một cái đĩa không, một cần gạt, bóng đèn và loa; mỗi khi loa phát âm thanh hay bóng đèn bật sáng, thì chuột có thể nhận được thức ăn trên đĩa nếu nhấn vào cần gạt. Thực tế cho thấy chuột học được ngay cách gạt cần để nhận thức ăn theo các tín hiệu âm thanh và ánh sáng của chủ.


Hầu hết các mạng xã hội thành công đều xây dựng đế chế của mình dựa theo phát hiện này của Skinner: các icon trên Facebook sẽ đổi màu, nhấp nháy, máy tính sẽ phát tín hiệu âm thanh quen thuộc khi có tin nhắn mới, khi có feed mới, khi có email mới, khi có tin tức mới; và khi người dùng mở trang web lên sẽ nhận được “phần thưởng”, dù cho họ có thích hay không cái gọi là “phần thưởng” ấy. Đó cũng là nguyên nhân làm cho các cô bé cập nhật ảnh mới liên tục, các cậu bé ngồi lì hàng ngày trên Facebook, các ông già về hưu viết hàng chục status hằng ngày để nhận được like của những người xa lạ. Không khó hình dung sự liên hệ giữa các dụng cụ thí nghiệm với các công cụ trên trang web của Facebook.

Sau một thời gian nhất định gia nhập vào cộng đồng mạng, con người bị rơi vào ảo giác rằng họ sẽ phải thường xuyên mở trang web lên nếu không muốn bỏ lỡ điều gì đó, và thời gian họ dành cho mạng xã hội ngày càng tăng, tới mức họ không còn phân biệt được cuộc sống thật và ảo nữa. Có những người có 5.000 bạn trên Facebook và hàng chục ngàn follower (người theo dõi), nhưng đám tang họ thì lạnh lẽo ở quê với vài ba bạn học từ thời thơ ấu, khi chưa ai biết máy tính cá nhân là gì.
Nói cách khác, ngày nay máy tính đã là chiếc lồng Skinner hiện đại, và mạng xã hội, trên phương diện nào đó, là một nhà máy khổng lồ với hàng tỉ chiếc lồng như thế.

Có phải Facebook được chào đón ở mọi nơi?

Thực ra Facebook không hiền lành vô tội như nụ cười của ông chủ tỷ phú của nó. Không ngẫu nhiên mà một số quốc gia cấm sử dụng mạng xã hội nước ngoài. Việc người dùng dành quá nhiều thời gian cho mạng, lưu trữ quá nhiều thông tin cá nhân trên mạng, và thậm chí trao đổi các thông tin nhạy cảm trên mạng, có thể làm cho ông chủ của kho dữ liệu khổng lồ ấy có được quyền lực khổng lồ với đời sống hàng tỉ công dân nước khác.

Ngày nay, việc mất quyền kiểm soát với dữ liệu cá nhân của công dân cũng là mất một phần chủ quyền quốc gia. Có thể nói rằng, phần lớn người dân hiện nay sợ mất kết nối với Facebook và Google còn hơn là mất nước, mất điện, kẹt xe hay thiếu thức ăn. Kết nối với internet đã trở thành nhu cầu cơ bản nhất, thấp nhất, và cũng là quan trọng nhất của tháp nhu cầu Maslow.



EU gần đây liên tục lên tiếng yêu cầu các mạng xã hội phải đảm bảo tính riêng tư của người sử dụng, phải cho phép họ xóa vĩnh viễn các dữ liệu cá nhân. Điều nguy hiểm hơn nữa là, thông qua việc sử dụng các cookie, Facebook theo dõi các hoạt động duyệt web của người dùng ngay cả khi họ không có tài khoản Facebook, hay đã hủy tài khoản, đăng xuất ra khỏi trang hoặc tắt chức năng quảng cáo trực tuyến. Điều này vi phạm luật pháp EU. Người dùng bị Facebook theo dõi khi họ sử dụng nút "like" được đặt trên hơn hàng triệu trang web bao gồm cả các trang của chính quyền và ngành y.

Những quan ngại của EU không phải là cá biệt. Các nhà chính trị đã thấy rằng rất nhiều điều luật cần phải sửa đổi để phù hợp với phát triển vũ bão của công nghệ. Và đã có nhiều chuyên gia cảnh báo về viễn cảnh khủng khiếp - khi thế giới bị hủy diệt bởi một hệ thống mạng xã hội biết tự tiến hóa và vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chính con người, như trong phim Terminator Genysis. Mặc dù hiện nay chuyện đó chỉ có thể xảy ra trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng, nhưng thực ra cũng mới chỉ chừng 10 năm trước đây, không ai trong chúng ta có thể hình dung về việc con người sẽ tiêu tốn hầu hết thời gian của mình trên mạng, và lưu trữ hầu hết cuộc đời mình trên mạng như hiện nay. Vậy nên, rất nhiều thứ khó tưởng tượng nổi cũng có thể đến trong vòng 10 năm tới.

Hành động nào của chúng ta?

Có lẽ đã quá muộn để bàn về một mạng xã hội của riêng Việt Nam. Vả lại, trình độ công nghệ cũng chưa bao giờ cho phép chúng ta làm được điều ấy. Việc xử lý khối lượng thông tin khổng lồ trong thời gian thực đòi hỏi những công nghệ phức tạp hơn rất nhiều so với chúng ta hình dung qua gương mặt hiền lành và đơn sơ của Google hoặc Facebook.

Tuy nhiên, nếu cứ phát triển nhanh như hiện nay, thì rất có thể sẽ đến lúc có cả trăm triệu người Việt dành trung bình mỗi ngày 8 tiếng để vào Facebook. Và viễn cảnh ấy thực sự đáng lo ngại. Để người dân không lãng phí thời gian của mình trên mạng vào việc đào bới thông tin làm giàu cho các ông chủ bên kia bờ đại dương, và không bị kích động định kỳ theo tâm lý đám đông bằng những hình ảnh cực đoan trên mạng, có lẽ cần đến những thay đổi căn bản về luật và cách tiếp cận vấn đề.

Nếu chỉ nghĩ đến việc kiểm soát các tài khoản Facebook cá nhân và nghiêm trị các hành vi phạm pháp trên mạng thì rất khó giải quyết vấn đề. Bởi lẽ kẻ nắm quyền sinh sát với hàng triệu tài khoản Facebook Việt Nam lại không chịu kiểm soát của pháp luật Việt Nam. Và do mạng xã hội không có biên giới, cho nên rất khó có cơ sở pháp lý để xử lý những tài khoản mạng mặc dù được viết bằng tiếng Việt và chỉ hướng đến khách hàng người Việt, nhưng lại được đăng ký và sử dụng hoàn toàn ở nước ngoài. Về lâu dài thì không thể kiểm soát những thứ mà chúng ta hoàn toàn không có quyền truy cập vào cơ sở dữ liệu.

Có lẽ chúng ta nên tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia khác, và tìm ra mô hình hợp tác hai bên cùng có lợi với các mạng xã hội. Và nên yêu cầu họ, ngoài việc kiếm lợi cho mình, phải có những hợp tác tích cực về mặt an ninh thông tin, bảo vệ dữ liệu cá nhân, và kiểm soát các hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam trên hệ thống của họ. Chủ quyền trên không gian mạng không còn là chuyện gì đó xa xôi, huyễn tưởng nữa, mà đã là yêu cầu cấp thiết, trước khi quá trễ. Vì có lẽ chúng ta sẽ chẳng có cơ hội cử ai đó quay lại quá khứ để thay đổi cái ngày mà mạng xã hội được cho phép hoạt động tự do tại Việt Nam.

Bài đã đăng trên báo Thanh Niên: 
http://www.thanhnien.com.vn/toi-viet/mat-chu-quyen-quoc-gia-tren-mang-583558.html

6 June 2015

Tìm Vàng từ Chiếc Loa Rác


Dường như có quá nhiều người quan tâm đến vụ chị bán ve chai Sài Gòn tìm được 5 triệu yên trong chiếc loa cũ và sau khi bị những người xung quanh tranh cướp tiền đã nộp lại cho công an. Có thể thấy đám đông đang mong chờ một kết thúc “cổ tích” là sau một năm thông báo mà không có ai đứng ra nhận, thì chị sẽ lấy được số tiền đó, hoặc, đúng hơn là, một phần của nó, hình như 50% sau khi trừ các chi phí liên quan, theo quy định của pháp luật VN.





Mong muốn ấy hiển nhiên phần nào thể hiện một mơ ước thầm kín nào đó của đám đông – chẳng hạn như đổi đời nhờ ông chú bên Mỹ, ông bác bên Nga, hoặc trúng số độc đắc, và ở trường hợp riêng này đã vật chất hóa thành chiếc loa cũ với kho tiền Nhật bên trong. Toàn bộ những thứ này kết hợp với hình ảnh mang tính biểu tượng của một nhân vật nghèo khổ có giới tính nữ chắc chắn đã gợi lên những chuỗi hình ảnh liên tưởng, và quả là một kịch bản hoàn hảo không chỉ cho báo chí, facebook, mà còn cho nhiều loại hình nghệ thuật khác nữa.

Tuy nhiên, hạnh phúc, như Nam Cao từng viết, là cái chăn hẹp, bên này co thì bên khác hở. Số tiền 5 triệu yên ấy hẳn là phải thuộc về một ai đó, và căn cứ theo loại tiền cũng như nơi cất giấu nó, thì có thể suy đoán rằng nó thực ra đã đến từ Nhật Bản, một quốc gia mà người dân có thói quen giấu tiền ở nhà, do lãi suất quá thấp và do sau đợt vỡ bong bóng tài sản vào thập niên 1990, Ngân hàng Trung ương Nhật (BoJ) đã bãi bỏ một phần chính sách bảo hiểm tiền gửi. Năm ngoái, ngài Taro Aso, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nhật,  từng thu hút sự chú ý của dư luận khi tuyên bố người Nhật đang “ngồi trên” 880 tỷ Yên, tương đương 7,33 nghìn tỷ USD, tiền mặt. Báo chí Nhật khi đó đưa tin rằng người dân nước này đang cất giữ số tiền khổng lồ ấy “dưới đệm”. Hoặc, nói một cách hình tượng hơn, “trong loa”.

Rất có thể đã có một người Nhật nào đó tích góp số tiền tiết kiệm của mình trong một chiếc hộp, rồi giấu nó vào trong một chiếc loa cũ. Rồi sau này do sơ suất, do đãng trí, hoặc do người thân không biết, chiếc loa này đã được quăng ra bãi rác điện tử, rồi được nhập về VN qua những con đường khác nhau, chẳng hạn qua Căm Pu Chia, nơi dân buôn đồ điện tử cũ rất ưa chuộng. Người Nhật đó có thể là một người nghèo, một phụ nữ lao động chân tay, đã dành dụm nó cho tuổi già của mình, hoặc cho con cháu mình.

Khó tin là người giàu lại giấu tiền trong một chiếc loa cũ, và cũng khó tin là một người VN lại giấu tiền yên của Nhật như vậy. Tiền yên không phải là loại tiền được ưa chuộng để cất giữ như một tài sản ở VN, và cũng hiếm ai chôn tiền trong nhà ở một đất nước có lãi suất ngân hàng rất cao và thị trường bất động sản tăng giá ổn định như chúng ta.

Đến đây, bỗng nhiên người viết những dòng này có một giấc mơ nhỏ. Tại sao, thay vì vui sướng với việc lượm được tiền người khác, chúng ta không thử thật tâm cố gắng tìm chủ sở hữu của nó, chẳng hạn bằng cách chụp và thông tin chi tiết các thông số kỹ thuật của chiếc loa cũ, chiếc hộp đựng tiền, số tiền trong hộp, cho dư luận Nhật biết để tìm chủ nhân đích thực của nó. Đúng là số tiền 5 triệu yên không lớn với một quốc gia giàu có như Nhật Bản, và cũng không phải tài sản lớn ở một quốc gia có phi công buôn lậu hàng cân vàng như chúng ta; nhưng, có những thứ không thể đo bằng tiền. Người ta có thể dựng tượng một chú chó vì nó chờ chủ nhiều năm ở ga tàu, chứ chưa chắc người ta đã dựng tượng một tỷ phú hãnh tiến nào đó.

Mặc dù với công nghệ hiện đại thì việc tìm chủ nhân cũ của một chiếc loa không phải là việc quá khó khăn, nhưng rất có thể việc tìm kiếm đó sẽ vô ích do chính chủ nhân chiếc loa đã qua đời hoặc mất trí nhớ, tuy nhiên nó cũng không tốn kém gì nhiều, và đặc biệt là, trong bối cảnh người Việt đang mang tiếng xấu ở Nhật và nước ngoài sau hàng loạt vụ buôn lậu, ăn cắp, và phạm các tội khác, thì các nỗ lực vì một số tiền nhỏ nhoi ấy biết đâu lại mang được những thay đổi đáng kể trong nhận thức của người nước ngoài về chúng ta. Dẫu sao thì các nỗ lực ấy cũng đáng để người ta bỏ công sức vào hơn là đứng ngoài vui mừng hò reo vì thấy có ai đó bỏ túi được tiền người khác làm mất.

Hẳn có người sẽ nói, như vậy thì chị ve chai quá thiệt thòi. Vâng, đúng là không nên phong thánh cho một chị ve chai. Khó có thể bắt một người nghèo như chị ấy phải hy sinh mấy trăm triệu đồng gần như đã nằm trong túi cho một giấc mơ viển vông mang tầm vĩ mô nào đó. Nhưng nếu như có nhiều người cùng mơ một giấc mơ lớn hơn cái loa cũ đôi chút, với viễn cảnh về một người nghèo nào đó ở một đất nước xa xôi nhận lại được chiếc loa giấu số tiền chắt bóp của mình, và nhờ đó mà ít nhất là người ấy và thân bằng quyến thuộc của họ có những suy nghĩ tốt hơn về người Việt, thì việc quyên góp vài trăm triệu để mua lại chiếc loa cũ đó từ chị ve chai chỉ là một chuyện quá nhỏ, ngang vài trang quảng cáo trên các tờ báo lớn của VN mà thôi.

Cho đến giờ, đất nước chúng ta vẫn mang cái tiếng là nơi tiêu thụ đồ cũ, là bãi rác công nghệ của thế giới, và là nơi vẫn phải ngửa tay nhận tiền giúp đỡ từ nước ngoài. Rồi chúng ta sẽ phải thoát ra khỏi được cảnh này, nhưng, có lẽ, nếu có tâm thế của những người tự trọng cùng tấm lòng nhân hậu với ước mơ xây dựng và bảo vệ tương lai bằng chính bàn tay mình, thì ngày đó sẽ đến sớm hơn.  Và nói cho cùng, thì nếu ta có làm điều thiện nào đó, thì cũng vì chính mình và con cái của mình mà thôi.

8 January 2015

Dịch giả Thiên Lương: Độc giả dung túng, dịch thuật tụt hậu

(Thethaovanhoa.vn) - Tại sao một nhà văn nghe nói vĩ đại mà lại viết ngô nghê đến thế? Tại sao một kiệt tác được hàng chục triệu người đọc mà lại sai lung tung? - đó là những câu hỏi độc giả có quyền đặt ra khi đọc một bản dịch kiệt tác không đạt.

Năm 2013, với bản dịch độc lập Lolita (không bản quyền, không cộng tác với một đơn vị xuất bản nào) chỉ vì không đồng tình với bản dịch có sẵn, Thiên Lương gây tò mò trên văn đàn. Trong suốt một năm qua, dịch giả này vẫn tiếp tục theo đuổi công việc phản biện các lỗi dịch thuật trong những bản dịch tiếng Việt của một số kiệt tác văn chương thế giới. Thiên Lương từng học ngành Điều khiển học tại Nga, thông thạo tiếng Anh và tiếng Nga.
* Dựa theo những bản dịch cụ thể đã đọc và so sánh, anh nhận xét thế nào về chất lượng dịch thuật các kiệt tác thế giới khi được đưa đến Việt Nam?
- Tôi thấy rất ít bản dịch ở Việt Nam chạm đến được cái đẹp của nguyên bản. Tuy nhiên, để đánh giá nghiêm túc một bản dịch thì chỉ có một cách duy nhất là đối chiếu chúng với bản gốc, và tôi thật sự thất vọng với bản dịch Lolita của Dương Tường do nó quá khác biệt so với nguyên bản tiếng Anh của Vladimir Nabokov. Lolita là tác phẩm đứng đầu trong hàng loạt bình chọn tiểu thuyết hay nhất của nhân loại, và thật đáng tiếc nếu nó không được dịch thật tốt qua tiếng Việt.
Các bản dịch khác mà tôi có đối chiếu cũng sai lệch rất nhiều, có thể nói là khác biệt ở mức khó chấp nhận.




Bìa bản dịch Lolita của Thiên Lương do họa sĩ Lê Thiết Cương thiết kế

* Các bản dịch như vậy có tác động ra sao đến tiếp nhận và trình độ của độc giả Việt Nam về lâu dài?
- Các bản dịch kém tác động xấu đến độc giả. Có thể độc giả sẽ nghĩ, tại sao một nhà văn nghe nói là vĩ đại đến thế mà lại viết rất bình thường, thậm chí ngô nghê như thế này, tại sao một kiệt tác được hàng chục triệu người đọc, mà lại bình thường, thậm chí sai lung tung thế này. Rồi họ sẽ mất dần thói quen đọc các bản dịch, và tác hại ấy rất lâu dài. Nếu bản dịch sai thuộc về các lĩnh vực như y tế, giáo dục, kinh tế, chính trị, thì tác hại còn khủng khiếp hơn nữa.
Đừng đánh giá thấp các lỗi dịch, đừng nghĩ rằng dịch sai đôi chút cũng không sao, miễn là hay. Có những lỗi dịch làm thay đổi toàn bộ tác phẩm, làm người đọc hiểu sai hoàn toàn. Có những lỗi dịch làm độc giả hoang mang, không biết tác giả là loại nhà văn nào mà viết kém thế. Mặc dù có thể cho bạn thấy hàng ngàn ví dụ như vậy, nhưng trong khuôn khổ của một bài phỏng vấn, tôi sẽ đưa ra một lỗi cực kỳ dễ hiểu với hầu hết bạn đọc có biết tiếng Anh sơ cấp, nhưng lại sai nghiêm trọng. Nó ở trang 261, bản dịch Lolita của Nhã Nam: “Miss Pratt nói, khua hai bàn tay lốm đốm vết men gan để minh họa”, và “hai bàn tay lốm đốm vết men gan” này, theo Nabokov viết bằng tiếng Anh, là liver-spotted hands, nghĩa là bàn tay của người già bị lốm đốm vết đồi mồi mà thôi. Kiểu dịch này chắc hẳn làm cho độc giả hoài nghi vào trình độ của một nhà văn thiên tài như Vladimir Nabokov.
* Dịch giả Đoàn Tử Huyến nói: “Hiện nay, yêu cầu về chất lượng dịch văn học không còn như cách đây mấy chục năm nên dịch giả cũng không thể dịch giống như trước”. Anh nghĩ sao?
- Tôi đồng ý. Ngày xưa, rất ít người có khả năng có được bản gốc, và lại càng hiếm ai đọc nổi bản gốc các tác phẩm văn chương nước ngoài, cho nên dịch giả dịch sao cũng được. Độc giả ngày nay đã khác.
* Thay đổi đó nói lên điều gì về sự khác biệt giữa các thế hệ dịch giả?
- Dịch giả ngày nay có người bạn trung thành và người thầy vĩ đại là Internet, nên họ có cơ hội để dịch tốt hơn rất nhiều so với các dịch giả thế hệ trước. Ngoài ra, chúng ta đang có hàng chục ngàn bạn trẻ sống và học tập ở nước ngoài, họ giỏi ngoại ngữ hơn rất nhiều dịch giả tự học. Ngày nay, những kiến thức tích lũy được sau năm tháng đã không còn ý nghĩa gì nhiều, quan trọng là năng lực nhận thức mối liên hệ tiềm ẩn giữa các sự vật hiện tượng (theo Vaclav Havel). Kiến thức nằm khắp nơi trên Internet, vấn đề là bạn có khả năng “đọc” được nó hay không.
* Có 2 quan điểm đối lập về dịch thuật: có người yêu cầu rất chặt chẽ về độ chính xác so với bản gốc; có người cho rằng chỉ cần giữ được “cái hồn” hay “cái thần” của tác giả tác phẩm, đúng sai có thể châm chước. Quan điểm của anh ra sao?
- Tôi nghĩ trên đời này chẳng ai dám nói là mình hiểu cái thần, cái hồn của các vĩ nhân, và cũng không có ai có tư cách nói như vậy. Và tôi cho rằng các tác giả cũng sẽ rất phẫn nộ (nếu họ còn có thể phẫn nộ) khi nghe thấy một ông dịch giả nào đó tuyên bố rằng bản dịch của ông ta tuy sai lung tung nhưng nắm được “cái hồn”, “cái thần” của tác giả! Nabokov từng phản đối kịch liệt quan điểm dịch méo mó bịa đặt kiểu đó.
Đừng coi thường độc giả, và đừng ngụy biện, đánh tráo một thứ có thể cân đong đo đếm, có thể định lượng là “dịch đúng”, qua một thứ chỉ có thể định tính, rất mông lung, là “dịch hay”. Quan điểm “dịch sai cũng được” ấy nếu còn được độc giả dung túng thì sẽ còn kéo dịch thuật Việt Nam tụt hậu nhiều năm. Tôi thấy đã đến lúc Việt Nam cần áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế vào công việc dịch thuật. Phải xác định rõ tiêu chuẩn với bản dịch, và phải minh bạch các tiêu chuẩn về lỗi cơ học, tức là sai kiểu “đen” dịch thành “trắng”. Số lỗi vượt quá tiêu chuẩn là nhà sách phải thu hồi, chứ không thể để tình trạng dịch ẩu như thế này kéo dài mãi. Theo tôi, tối đa số lỗi nên là 0,5%, nghĩa là 200 chữ được sai 1. Và trong giai đoạn hỗn loạn này, có thể các cơ quan quản lý nhà nước phải can thiệp sâu hơn vào thị trường sách dịch.



Việt Nam đã dịch 50% kiệt tác?
Theo Modern Library thì 10 tiểu thuyết vĩ đại nhất thế kỷ 20 là:
Ulysses - James Joyce
The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại) - F.Scott Fitzgerald
A Portrait Of The Artist As A Young Man (Chân dung một chàng trai trẻ) - James Joyce
Lolita (Lolita) - Vladimir Nabokov
Brave New World - Aldous Huxley
The Sound And The Fury (Âm thanh và cuồng nộ) - William Faulkner
Catch-22 - Joseph Heller
Darkness At Noon - Arthur Koestler
Sons And Lovers - D.H.Lawrence
The Grapes Of Wrath (Chùm nho uất hận) - John Steinbeck.
Danh sách của Modern Library (thuộc NXB Random House, Mỹ) bị cho là quá “thân Mỹ”, đúng hơn là thiên về Bắc Mỹ và châu Âu. Trong ngoặc đơn là tên bản dịch tiếng Việt phổ biến, vậy là Việt Nam đã dịch một nửa số kiệt tác, có cuốn dịch đến 2-3 lần, nhưng nhiều quyển chất lượng lại rất có vấn đề.


Mi Ly (thực hiện)

Thể thao & Văn hóa Cuối tuần

14 July 2014

Từ chuyện Lê Hoàng ngồi lên sách, đến lệch lạc tâm lý cần điều trị


Mặc dù cái gọi là giới trí thức Việt Nam đang bất đồng ý kiến đến mức cực đoan về tấm ảnh một đạo diễn và một cô hoa hậu ngồi lên những chiếc ghế được kê chân lên đống sách, nhưng thật ra vấn đề này đã được Marx nhắc đến trong bộ Tư Bản, và thậm chí ngày nay còn được coi là một trong những khái niệm trung tâm của chủ nghĩa Marx, đó chính là chứng bái vật giáo.


Hình ảnh Lê Hoàng - Triệu Thị Hà ngồi lên sách bị 'ném đá' trên mạng - Ảnh: T.L

Từ bái vật giáo hàng hóa

Thuật ngữ “bái vật” được dùng để chỉ hiện tượng mà một vật nào đó, đặc biệt là một vật do con người tạo ra, được người ta cho rằng có sức mạnh phi thường và có quyền lực mạnh hơn các vật khác. Về cơ bản, bái vật (fetishism) là việc gán cho một vật vô tri vô giác nào đó có giá trị hay có sức mạnh đặc biệt mang tính biểu tượng. Vật đó có thể là một bức tượng, một chiếc đồng hồ, một cái xe hơi, một ngôi nhà, hay thậm chí đơn giản là một cuốn sách.

Theo Marx, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, con người giao tiếp với nhau thông qua hàng hóa, hầu hết các mối quan hệ dựa trên sự trao đổi hàng hóa (bao gồm sức lao động và thời gian), và điều này đưa đến hậu quả tất yếu là con người đánh giá nhau qua hàng hóa, hàng hóa trở thành đại diện cho con người, và đến một lúc nào đó, con người sẽ tha hóa đến mức sùng bái hàng hóa, gán cho chúng những sức mạnh và giá trị tinh thần mà chúng hoàn toàn không sở hữu.

Có thể đáng tiếc, có thể không, nhưng cho đến ngày nay, quan điểm này của Marx vẫn hoàn toàn chính xác!

Cho đến sai lạc tình dục


Sigmund Freud (6 May 1856 – 23 September 1939) 

Ngoài ra, Sigmund Freud cũng sử dụng thuật ngữ "bái vật" để mô tả một hình thái sai lạc tình dục, khi đối tượng tình cảm là đồ vật vô tri giác hay bộ phận cụ thể nào đó trên cơ thể. Các nhà tâm lý hiện đại cho rằng chứng bái vật vừa bắt nguồn từ điều kiện môi trường hay hệ quả của những trải nghiệm gây cảm xúc mạnh để lại dấu vết trong não (tức các chấn thương tâm lý), nhưng cũng có thể do các yếu tố thể chất như cấu trúc não và di truyền. Chẳng hạn như một người từ bé đã thấy cảnh bố mẹ làm tình trên những cuốn sách, thì sau này, một cách vô thức, sẽ cảm nhận được khoái lạc khi nhìn thấy sách.

Bái vật trong tình dục là trạng thái phải được nhìn thấy, được sờ mó, hôn hít một vật nào đó thuộc nhiều loại khác nhau thì mới tạo được khoái cảm. Về cơ bản, bái vật là một sai lạc về đối tượng, lấy một bộ phận ra để thay thế cái toàn thể, ví dụ có nhiều nam giới bị kích thích tình dục với giày của phụ nữ. Vật càng gần cơ quan sinh dục nữ càng dễ gây kích thích, vì thế đồ lót của phụ nữ là thứ rất gây kích động cho nam giới. Như vậy, hình ảnh những cuốn sách bị phụ nữ ngồi lên sẽ có thể gây khoái cảm đặc biệt cho một số bệnh nhân nam giới, do chúng ở vị trí gần với các cơ quan sinh dục nữ nhất, như chúng ta đã thấy trong trường hợp nổi tiếng được nhắc đến ở đầu bài viết này.

Điều trị

Có nhiều liệu pháp đã từng được áp dụng để điều trị căn bệnh lệch lạc tâm lý này, ví dụ như liệu pháp tạo ra điều kiện để kinh sợ: cho người bệnh đối diện với vật được yêu thích và ngay khi họ phát sinh hứng khởi tình dục thì bị ngay một kích thích khó chịu hay đau đớn. Trước đây người ta đã dùng những kích thích đau đớn như choáng điện là điều kiện để gây kinh sợ. Giả dụ như chúng ta có thể cho người bệnh ngồi trước một màn hình có chạy nhiều hình ảnh khác nhau, mỗi khi có cuốn sách nào chạy qua thì ghế sẽ phát ra dòng điện đủ mạnh để bệnh nhân đau đớn, hoặc thậm chí tiết ra một số dung dịch bay hơi có mùi khó chịu để bệnh nhân cảm thấy kinh sợ.

Nhưng để chữa căn bệnh tận gốc, thì phải tìm cách cho bệnh nhân nhận thức được sự khác biệt giữa hàng hóa và con người nói riêng cũng như các giá trị tinh thần nói chung. Và mặc dù có lý thuyết cho rằng cấu trúc bộ não là căn nguyên của chứng bái vật giáo, nhưng điều đó chưa bao giờ được chứng minh. Và Marx vẫn đặt niềm tin vào một hình thái xã hội mà ở đó quan hệ giữa con người không chỉ còn là quan hệ hàng hóa.

Còn chúng ta, trong khi chờ đợi giấc mơ của Marx thành hiện thực, thì ít nhất cũng đừng để mình thành một bệnh nhân của ông bác sĩ thành Viên kia!

Nguồn:

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140712/tu-chuyen-le-hoang-ngoi-len-sach-den-lech-lac-tam-ly-can-dieu-tri.aspx