3 August 2012

Sigmund Freud


Nabokov rất hay công kích Freud trong các tác phẩm văn học của mình, và Lolita không phải ngoại lệ. Mặc dù còn nhiều tranh cãi nhưng không ai có thể phủ nhận tầm ảnh hưởng cũng như sự vĩ đại của Freud. Được biết đến như cha đẻ của ngành phân tâm học, tuy nhiên những công trình khoa học của Freud đã vượt xa khỏi phạm vi hẹp của mình.

Tiểu sử Freud. 



Thời trẻ

SIGMUND FREUD sinh năm 1856 ở Freiburg (hiện nay là Pibor thuộc cộng hòa Séc), một thị trấn ở nước Moravia (lúc ấy thuộc đế quốc Áo). Tên khai sinh của ông là Sigismund Schlomo Freud nhưng về sau (năm 1877) chính ông đã rút ngắn tên mình thành Sigmund Freud. Mẹ ông là vợ thứ ba của Jacob (1815–1896), cha ông, và khi sinh Sigmund bà chỉ mới 21 tuổi. Cha của Freud là một doanh nhân Do Thái, hay giúp đỡ người khác, hơn vợ ba của mình đến 20 tuổi. Vào lúc Freud được 3 tuổi, cha ông bị vỡ nợ. Hoàn cảnh của gia đình Freud không cải thiện những năm sau đó, và vào năm 1860 - lúc Freud mới lên bốn tuổi - gia đình ông đã mất hết của cải và phải chạy trốn qua thành Wien, thủ đô nước Áo. Tuy túng thiếu, song gia đình của Freud luôn cố gắng hết sức để tạo điều kiện cho ông được học tập đến nơi đến chốn.

Tại Wien, Freud là học sinh xuất sắc, tuy ông có khá nhiều vấn đề thích nghi với cuộc sống ở một thành phố lớn. Năm 17 tuổi, ông tốt nghiệp phổ thông và chọn học ngành y. Freud vào Trường Y Dược ở Wien không vì muốn hành nghề chữa bệnh, lý do thực sự là sở dĩ ông ta đam mê nghiên cứu các mối quan hệ giữa người với người. Năm 1876, ông làm việc tại phòng thí nghiệm của Ernst Wilhelm Brücke, nơi ông bắt đầu một sự nghiệp nghiên cứu sáng chói về một số hiện tượng giải phẫu - sinh lý học của hệ thần kinh. Năm 1881, Freud tốt nghiệp đại học và quen với bà Martha Bernays - vợ tương lai của ông.

Sự nghiệp

Trước nhu cầu lập gia đình, Freud cần tiền. Vì lý do này ông đã từ bỏ những phòng thí nghiệm lý thuyết nhàm chán và quyết định tham gia dịch vụ tâm thần học của giáo sư Theodor Meynert. Trong thời gian này, Freud nghiên cứu, đào sâu và thực tập thêm về môn thần kinh học. Năm 1885 đánh dấu thành tựu đầu tiên của nhà phân tâm học tương lai: ông đã chứng minh được những tính chất giảm đau của cocain và cho xuất bản cuốn ober Coca (Về chất cocain). Với tác phẩm này, Freud trở thành người đầu tiên trong lịch sử y dược đã ca ngợi những tính chất của cocain, một điều đã gây nhiều hiềm khích giữa Freud và giới y khoa ở Wien về sau.

Cũng vào năm 1885, cuộc đời của Freud đi theo một ngã rẽ mới. Ông dành được học bổng và đến Paris, nơi ông sẽ thực tập sư phạm với nhà thần kinh học người Pháp Jean Charcot, khá nổi tiếng lúc bấy giờ. Tại bệnh viện Salpêtrière, Paris, Freud bỏ công sức quan sát và nghiên cứu những biểu hiện của chứng hysteria và về ảnh hưởng của thôi miên.

Sau một thời gian ở Paris, Freud dọn về Berlin - nơi ông dành thời gian quan tâm đến bệnh thần kinh ở trẻ em - và rồi lại về nơi ở cũ - Wien, nước Áo. Tại đây, ông đã mở phòng mạch thần kinh và nhận chữa bệnh cho nhiều bệnh nhân thần kinh bằng liệu pháp điện hoặc liệu pháp thôi miên. Trong khoảng một thập kỷ, công tác và kinh nghiệm chữa bệnh của Freud đã dần dần giúp ông dựng nền tảng của ngành phân tâm học.

Bà Anna O. (tên thật là Bertha Pappenheim) - một bệnh nhân nổi tiếng của Freud với chứng bệnh hysteria - được xem như trường hợp phân tâm học đầu tiên được ghi chép trong y văn. Sau một thời gian khám bệnh cho bà ta, Freud đi đến một vài kết luận quan trọng về nguồn gốc của chứng hysteria. Theo ông, những cơn hysteria không gì khác hơn là một số kỷ niệm nhất định, một số cảnh quá khứ đóng một vai trò quan trọng nào đó đã được làm sống lại qua những ảo giác. Ngoài ra, từ năm 1887 đến năm 1902, Freud bỏ công nghiên cứu những cơ chế của sự dèn nắn cảm xúc, những triệu chứng của hiện tượng này và nhất là đã khám phá ra hội chứng Êđíp vào năm 1897. Năm 1899, ông viết và cho xuất bản cuốn Giải đoán những giấc mơ - và lần đầu tiên trong lịch sử khoa học giấc mơ trở thành một đối tượng nghiên cứu nghiêm túc. Năm năm sau đó ông lại cho xuất bản tiếp Ba tiểu luận về lý thuyết giới tính - một tác phẩm cột mốc của sự nghiệp Freud.

Cần phải nói thêm rằng ở độ tuổi 40, bản thân Freud cũng là nạn nhân của một vài chứng rối loạn tâm lý - thể xác, bao gồm nhiều chứng sợ quá đáng, nhất là sợ cái chết. Với bản năng là nhà phân tâm học, ông đã tự áp dụng lý thuyết này cho chính mình. Ông tự khám phá những giấc mơ, kỷ niệm của chính ông - nhất là kỷ niệm thơ ấu, và tiến trình phát triển của cá tính ông. Cũng trong giai đoạn này, Freud nhận thức được rằng ông có hiềm khích sâu kín với cha mình, và lại có xung cảm tình dục với mẹ ông - người mà theo ông là nồng ấm, quyến rũ và rất bảo hộ. Có lẽ rối loạn tâm lý mà Freud đã trải qua trong những năm này đã đóng góp một cách đáng kể cho sự nghiệp sáng tác và nghiên cứu phong phú của ông đã nói trên.

Đây là một giai đoạn cột mốc, Freud dần dà phát triển nên một định nghĩa chính xác cho thuật ngữ "phân tâm học": phân tâm học, theo ông, được định nghĩa như ngành khoa học có chức năng nghiên cứu cơ chế hoạt động của bộ máy tâm thần. Một định nghĩa gây nhiều tiếng vang và tán thưởng trong giới chuyên môn bấy giờ. Năm 1902, Hội Tâm Lý Học Ngày Thứ Tư ra đời, với sự có mặt của nhiều đồ đệ giỏi của Freud như Paul Federn hay Carl Gustav Jung. Năm 1908, hội này đổi tên thành Hội Tâm Lý Học Wien. Trong suốt sự nghiệp của mình, Freud có đặc điểm là rất thiếu khoan dung với bất kỳ ai bất đồng ý kiến với những lý thuyết do ông đưa ra.

Từ năm 1910 cho đến 1930, Freud tiếp tục cho xuất bản một số tác phẩm giá trị, chẳng hạn cuốn Vật tổ và điều cấm kỵ (năm 1913), mà trong đó lần đầu tiên Freud đưa vào khái niệm narcissism (sự tự yêu - một cách dịch tạm) trong khi bàn về nguồn gốc loài người. Thậm chí gây nhiều tiếng vang hơn nữa là tác phẩm Ra ngoài nguyên tắc thú vui, trong đó Freud giới thiệu một vài khái niệm mới như xung năng cuộc sống, xung năng cái chết và nhất là ông đã đề xuất ba phạm trù tâm thần mà sau này mọi người đều nhắc đến: bản năng, bản ngã, siêu ngã. Không dừng lại ở đó, Freud mở rộng và áp dụng lý thuyết phân tâm học vào nền văn minh loài người, ông tố cáo sức nặng tôn giáo và đạo đức lên trẻ con, qua những cuốn như Tương lai một ảo tưởng viết năm 1927.

Vào năm 1930, nước Đức công nhận tài năng của Freud bằng cách trao giải thưởng Goethe cho ông. Không may cho Freud, đây lại là thời chủ nghĩa phát xít đang lên cao, và một vài năm sau đó sách của ông bị đốt trên toàn nước Đức. Hơn nữa, cuộc chiến của Đức Quốc Xã (thâu tóm nước Áo vào đế quốc Đức) đã buộc Freud và gia đình đi lưu đày: vào năm 1938, ông được quyền rời nước Đức, qua Pháp rồi từ đó vượt biển đến London, Anh. Người ta đồn rằng, khi đến biên giới Pháp, Freud được đòi hỏi phải ký một biên bản chứng nhận rằng ở Đức, ông đã được những người phát xít đối xử tử tế. Freud có lẽ đã phục tùng (vì không còn cách nào khác), nhưng ông đã viết thêm dưới đáy tờ giấy một câu châm chích: Tôi xin nồng nhiệt giới thiệu Gestapo với bất cứ ai. Ở Anh, ông tiếp tục trị bệnh cho một vài bệnh nhân.

Cái chết

Vào năm 1923 Freud được giải phẫu lần đầu tiên vì bệnh ung thư hàm. Căn bệnh này không ngăn cản được thói quen hút thuốc, mà ông giữ cho đến lúc chết. Tương truyền ông hút một gói thuốc mỗi ngày. Tuy vậy bệnh ung thư ác tính đã gây cho ông nhiều đau đớn đến nỗi, vào ngày 21 tháng 9 năm 1939, Freud yêu cầu bác sĩ của mình tiêm một liều móocphin. Nó đã đưa ông chìm vào hôn mê và qua đời hai ngày sau.